Đối tượng nào có nguy cơ cao mắc Bệnh Ung thư buồng trứng?
Nguyên nhân gây ra bệnh ung thư buồng trứng vẫn chưa được biết chính xác. Các yếu tố nguy cơ cho ung thư tế bào mầm và mô đệm của buồng trứng ít được biết đến. Dưới đây là một số yếu tố nguy cơ của ung thư biểu mô buồng trứng.
1. Tuổi
Nguy cơ phát triển ung thư buồng trứng tăng lên theo tuổi. Ung thư buồng trứng rất hiếm gặp ở phụ nữ dưới 40, và hầu như nó đều được phát hiện ở sau thời kì mãn kinh. Một nửa trong số tất cả các bệnh ung thư buồng trứng được tìm thấy ở phụ nữ 63 tuổi trở lên.
Hầu hết ung thư buồng trứng phát triển sau thời kỳ mãn kinh
2. Béo phì
Phụ nữ béo phì (BMI ≥ 30) có nguy cơ cao phát triển bệnh ung thư buồng trứng.
3. Tiền sử sản, phụ khoa
Những phụ nữ đã từng mang thai trước 26 tuổi có nguy cơ ung thư buồng trứng thấp hơn so với những người khác. Các nguy cơ giảm đi khi mang thai đủ tháng và cho con bú. Những phụ nữ mang thai lần đầu tiên sau 35 tuổi hoặc chưa bao giờ có thai có nguy cơ cao ung thư buồng trứng.
Những phụ nữ đã thắt ống dẫn trứng hoặc cắt bỏ tử cung (không loại bỏ buồng trứng) cũng có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư buồng trứng.
4. Sử dụng thuốc
Những phụ nữ đã sử dụng thuốc tránh thai ít có nguy cơ mắc bệnh ung thư buồng trứng, nguy cơ giảm chỉ sau 3-6 tháng sử dụng các loại thuốc tránh thai và duy trì liên tục trong nhiều năm sau khi đã ngừng dùng thuốc. Một nghiên cứu gần đây cho thấy rằng những phụ nữ sử dụng depot medroxyprogesterone acetate (DMPA hay Depo-Provera CI ®), một biện pháp tránh thai nội tiết tố dạng tiêm có nguy cơ thấp ung thư buồng trứng thấp hơn. Nguy cơ thậm chí còn thấp hơn nếu phụ nữ đã sử dụng nó trên 3 năm.
Thuốc điều trị vô sinh: Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy bằng chứng việc sử dụng thuốc điều trị vô sinh: clomiphene citrate (Clomid ®) trong thời gian dài trên một năm có thể làm tăng nguy cơ phát triển các khối u buồng trứng. Tuy nhiên, những phụ nữ vô sinh có nguy cơ cao hơn (so với phụ nữ sinh đẻ nhiều) ngay cả khi họ không sử dụng thuốc điều trị vô sinh, có thể một phần là do họ đã không mang thai hoặc không sử dụng thuốc tránh thai.
Liệu pháp estrogen và liệu pháp hormone: Một số nghiên cứu gần đây cho thấy phụ nữ sử dụng estrogen sau mãn kinh có nguy cơ phát triển ung thư buồng trứng. Nguy cơ cao hơn ở phụ nữ dùng estrogen đơn độc (không kèm progesterone) trong nhiều năm (ít nhất là 5 hoặc 10 năm). Nguy cơ tăng ít hơn cho phụ nữ dùng cả estrogen và progesterone.
5. Hội chứng ung thư gia đình
Do đột biến di truyền trong gen BRCA1 và BRCA2, cũng như một số gen khác chưa được xác định. Nguy cơ ung thư vú, ung thư ống dẫn trứng và ung thư màng bụng nguyên phát tăng cao trong cả gia đình. Nguy cơ của một số bệnh ung thư khác như ung thư tụy, ung thư tuyến tiền liệt cũng tăng lên. (5-10% ung thư buồng trứng là do hội chứng ung thư gia đình).
6. Chế độ ăn uống
Ít chất béo (ít nhất là 4 năm) làm giảm nguy cơ ung thư buồng trứng.

Lưu ý: Thông tin trong bài viết này chỉ mang tính chất tham khảo, bạn vui lòng liên hệ với Bác sĩ chuyên môn, Dược sĩ hoặc chuyên viên y tế để được tư vấn theo từng trường hợp cụ thể.